NHÀ MÁY ĐIỆN VINH TRONG 10 NĂM CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA GIẶC MỸ

A, THỜI KỲ 8-1965 ĐẾN 8-1969
Đầu năm 1964, Đế quốc Mỹ sử dụng không quân và hải quân “leo thang” đánh phá các mục tiêu quân sự, kinh tế, giao thông vận tải ở miền Bắc, trong đó trọng điểm là các Nhà máy điện nhằm gây tê liệt mọi hoạt động của miền Bắc, đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Trước âm mưu mới của đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị Chính trị đặc biệt. Tại hội nghị này Bác Hồ đã kêu gọi “toàn thể đồng bào miền Bắc luôn luôn nhớ rằng: Trong lúc chúng ta đang sinh hoạt và xây dựng trong hòa bình, thì đồng bào miền Nam đang anh dũng hy sinh, chiến đấu oanh liệt chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai vì vậy mỗi chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ra Chỉ thị khẩn cấp về “Công tác phòng không nhân dân và chống biệt kích tập kích của địch”.
Trong giai đoạn này khi nhịp độ thi đua sản xuất nông công nghiệp và các hoạt động kinh tế xã hội đang trên đà phát triển, mang lại những hiệu quả thiết thực thì đế quốc Mỹ gây cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Từ 30 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1964, tàu biệt kích của Mỹ ngụy đã tập kích đảo Hòn Ngư, chiến sĩ bảo vệ đảo đã kịp thời phát hiện và chủ động đánh trả buộc chúng phải rút lui. Ngày 3 tháng 7 và ngày 1 tháng 8 năm 1964 nhiều tốp máy bay địch lẻn vào đánh phá bản Nậm Cắn và bản Dẻ (Kỳ Sơn).
Ngày 5 tháng 8 năm 1964 chúng liều lĩnh đưa nhiều tốp máy bay phản lực vào đánh phá vùng Vinh – Bến Thủy và một số nơi khác trên miền Bắc, ta đã kịp thời đánh trả quyết liệt. Chiếc máy bay phản lực đầu tiên của giặc Mỹ rơi trên miền Bắc do quân và dân Nghệ An bắn hạ. Đây là chiến công lịch sử đầu tiên của quân dân Nghệ An, mốc lịch sử mở đầu cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ “Vết thương chiến tranh của thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chưa hàn gắn kịp, nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến đấu mới quyết liệt hơn do đế quốc Mỹ gây ra”
Từ đây miền Bắc nước ta chuyển hướng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến, vừa phải sản xuất vừa chiến đấu để bảo vệ những thành quả đã xây dựng trong những năm qua. Sự kiện ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ dùng không quân ném bom bắn phá, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc đã gây lòng căm phẫn cực độ trong nhân dân cả nước.
Tháng 2/1965 đế quốc Mỹ mở chiến dịch “Sấm rền”, dùng không quân ném bom, bắn phá ào ạt nước ta từ Vĩnh Linh đến Nghệ An rất ác liệt. Mỗi CBCNV Nhà máy Điện Vinh đã phát huy tính tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng của quê hương Xô Viết, của công nhân Trường Thi – SIFA, Bến Thủy, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ địch. Với khẩu hiệu hành động: Mỗi công nhân ngành điện là một chiến sỹ kiên cường trong sản xuất và chiến đấu để bảo vệ nguồn điện của Tổ quốc.

Trước tình hình chiến sự ngày một phức tạp Đảng ủy Nhà máy Điện Vinh đã họp và nhận định: “Kẻ địch bằng mọi cách nó sẽ đánh mạnh, đánh ác liệt vào Nhà máy ta, máy móc sẽ bị hư hỏng và nhất định sẽ có đồng chí phải hi sinh. Trong cuộc đấu tranh với kẻ thù để bảo vệ và duy trì dòng điện thì sự hi sinh đối với chúng ta là sẽ tất nhiên, chúng ta đã sẵn sàng nhận lấy sự hi sinh đó. Song chúng ta phải làm thật tốt công tác phòng không nhân dân, che chắn đến mức tối đa với con người và thiết bị, để giảm bớt thương vong. Hãy lãnh đạo, đảng viên và quần chúng quyết bảo vệ và duy trì dòng điện, hãy bám lấy lò, máy, đường dây để sản xuất ra điện, sản xuất bây giờ thực tế là chiến đấu và cũng sẽ gian khổ hi sinh như trực tiếp vật lộn với kẻ thù nơi tiền tuyến”
Từ chủ trương của Đảng ủy, toàn Nhà máy thực hiện ngày sản xuất, đêm đào hầm hào, đắp công sự. Trong 30 ngày đêm đầu năm 1965 đã huy động hơn 2 vạn ngày công lao động ngoài giờ đào hầm, đặp ụ cho người và máy móc; hàng ngàn tấn thiết bị vật tư, vật liệu quý cho sản xuất đã được đưa đi sơ tán ra ngoài thành phố. Tình hình sản xuất, sinh hoạt đã được chuyển sang thời chiến, công tác chính trị tư tưởng được Đảng ủy đặc biệt quan tâm; một phong trào tranh luận về cách mạng và hy sinh dâng lên tạo thành một khí thế khẩn trương sôi nổi thi đua sản xuất và sẵn sàng chiến đấu trong toàn Nhà máy.
Việc sơ tán thiết bị Nhà máy được thực hiện ở những địa bàn: Núi Quyết- Bến Thủy; xã Nghi Trung- Nghi Lộc; Xã Nam Liên – Nam Đàn; Xã Hưng Đông, Hưng Vĩnh – Thành phố Vinh; Xã Hưng Đạo – Hưng Nguyên; Xã Tràng Sơn, Thịnh Sơn – Đô Lương; Xã Thanh Lĩnh, Thanh Thịnh, Xã Thanh Dương – Thanh Chương
Hàng trăm người già, trẻ em gia đình công nhân, viên chức được đưa đi sơ tán về những nơi an toàn: Xã Minh Lộc – Can Lộc; Xã Kim Liên – Nam Đàn; Xã Nghi Liên, Nghi Trung – Nghi Lộc; Xã Nam Chung – Nam Đàn; Xã Diễn Lâm – Diễn Châu và Đội Tân Long – Nông trường Sông Con – Tân Kỳ.
Việc sơ tán tài sản, thiết bị, con người, và việc thực hiện lệnh phòng không nhân dân chuẩn bị cho công cuộc chiến đấu lâu dài đã được thực hiện triệt để và có kết quả. Đó là việc đảm bảo cho thiết bị, con người an toàn, tạo niềm tin cho những người được phân công ở lại bám trụ sản xuất, tham gia chiến đấu. Các điểm sơ tán nói trên suốt những năm chiến tranh không để xảy ra thương vong, con em công nhân, viên chức vẫn được nuôi dưỡng và học hành tốt. Có nhiều cháu đã vượt qua hoàn cảnh khó khăn vươn lên học đại học, đi học nước ngoài, hiện nay hầu hết đều trưởng thành, đại đa số là cán bộ, viên chức của ngành điện.
Từ tháng 3/1965 trở đi, Nghệ An bước vào thời chiến thực sự. Với vị trí “Yết hầu” nổi liền hai miền Nam – Bắc cùng với các tỉnh khu 4, Nghệ An đã phải chịu sự đánh phá vô cùng ác liệt. Suốt ngày đêm máy bay phản lực Mỹ gầm rú, nem bom bắn phá hàng loạt ở nhiều vùng, gây bao cánh tang tóc.᷇ Đặc biệt thành phố Vinh các đầu mối giao thông, các cơ sở công nghiệp là những mục tiêu lớn bị đánh phá ác liệt nhất, có tính hủy diệt. Mọi sinh hoạt của nhân dân và hoạt động kinh tế mà trước hết là sản xuất công nghiệp, phải chịu tác động và thứ thách trực tiếp của cục diện chiến tranh.
20 giờ ngày 22/4/1965 máy bay giặc Mỹ đã đánh vào Nhà máy Điện Vinh nhưng do lực lượng phòng không đánh trả quyết liệt nên việc đánh phá mục tiêu của kẻ địch bị sai lệch, tuy thế 2 quả bom cũng đã rơi vào khu vực Nhà máy, một quả rơi gần công phụ (công xe ô tô đưa than vào bãi), một quả rơi vào khu vực này không gây hư hại gì lớn đến thiết bị máy móc, nhưng làm cho 2 công nhân viên bị thương, đó là đồng chí Nguyễn Văn Quỳnh, nhân viên bảo vệ đang làm nhiệm vụ và đồng chí Phan Doãn Đệ công nhân rèn Phân xưởng cơ khí (thời điểm này Phân xưởng Cơ khí được chuyển sang làm việc ban đêm).
– Tháng 5/1965 địch tăng cường đánh phá miền Bắc với diện rộng hơn, cường độ lớn hơn, với đủ loại máy bay, và pháo kích từ tàu chiến ngoài biển vào.
– Ngày 4/6/1965 đối với Nhà máy Điện Vinh là một ngày không thể nào quên, “Một ngày căm thù không đội trời chung với giặc Mỹ xâm lược”. 10 giờ kém 15 phút đế quốc Mỹ đã huy động nhiều tốp máy bay ở nhiều hướng ồ ạt trút bom vào Nhà máy Điện Vinh, một số thiết bị máy móc bị hư hỏng nặng. Trong giờ phút ác liệt đầu tiên đó, các bộ phận vận hành đã bình tĩnh, dũng cảm thao tác chính xác đưa lò máy ngừng một cách an toàn, 120 đồng chí cán bộ công nhân tham gia vận hành xử lý xong phần việc của mình đã rút lui an toàn. Huỳnh Ngọc Đủ – trưởng kíp Tua- bin đã chỉ huy anh em trong kíp vận hành thao tác ngừng máy an toàn, anh là người rút lui sau cùng.
Điện mất, các trận địa pháo, các trận địa tên lửa không có điện, đài chỉ huy chiến đấu của Quân khu 4, của tỉnh, của thành phố không có điện; nông nghiệp đang thời kỳ đòi hỏi nước để chống hạn, bệnh viện cần điện để mổ và điều trị các bệnh nhân.
Được lệnh phải phục hồi lại Nhà máy để phát điện phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Mọi người, mọi bộ phận lại lao vào kiểm tra, vệ sinh thu dọn thiết bị, sửa chữa những thiết bị hư hỏng, thì đến 14 giờ máy bay địch lại ập tới ném bom xối xả vào Nhà máy. 8 đồng chí cán bộ công nhân hy sinh ngay tại nơi mình đang làm việc, trong tay còn các dụng cụ đồ nghề làm việc, nhiều đồng chí khác bị thương.


1. Đồng chí Trần Văn Qua quê ở lộ 15 – Chợ Lớn – Sài Gòn, quản đốc phân xưởng điện hy sinh tại nhà phân phối điện, khi đào bới được thi thể anh thì tay còn nắm chặt chiếc tuốc-nơ-vít do anh tự làm lấy.
2. Đồng chí Đỗ Ngọc Đỉnh quê ở Trường Xuân tỉnh Thanh Hóa, là công nhân thí nghiệm điện, tuổi đời còn trẻ, tính tình vui vẻ sôi nổi, trong công tác cẩn thận, chu đáo, nắm vững kỹ thuật chuyên môn, anh hy sinh tại nhà phân phối điện trong lúc đang đi kiểm tra thiết bị. Khi tìm kiếm được thi thể anh và bên chỗ anh ngã xuống còn có chiếc đồng hồ vạn năng mà anh đang sử dụng.
3. Đồng chí Lê Thị Hòe quê ở Nghi Thu – Nghi Lộc là kỹ thuật viên của phân xưởng lò, chị đã ngã xuống bên cạnh bảng điều khiển lò khi đang kiểm tra đồng hồ tự ghi áp lực hơi quá nhiệt, để lại một con trai còn nhỏ và chồng là bộ đội đang chiến đấu ở chiến trường xa.
4. Đồng chí Trần Văn Tý quê ở Xuân Trường – Nghi Xuân – Hà Tĩnh, là trưởng kíp vận hành lò, hy sinh cạnh quạt khói lò số 3, trong lúc đang đi kiểm tra để chuẩn bị
đưa lò vào vận hành.
5. Đồng chí Nguyễn Bửu Quang quê ở Phú Vang – Thừa Thiên – Huế, trưởng phòng hành chính, hy sinh khi đang đi kiểm tra xem xét để lên kế hoạch phục vụ bồi dưỡng cho lực lượng vào tham gia phục hồi ngày hôm đó.
6. Đồng chí Phan Đức Duyệt quê ở Quảng Đông Trung Quốc là công nhân cơ khí, hy sinh trên đường chạy từ phân xưởng cơ khí về nới trú ẩn.
7. Đồng chí Nguyễn Cảnh Dần quê ở Hòa Sơn Đô Lương, công nhân vận hành lò, hy sinh tại chân cầu thang lò số 1 trong lúc còn đi kiểm tra bơm phốt phát.
8. Đồng chí Trần Văn Toàn Quê ở Thanh Tùng – Thanh Chương, công nhân vận hành lò hy sinh trong lúc đi kiểm tra ở bao hơi lò số 3.
Bên cạnh sự tổn thất to lớn về con người, trong ngày hôm đó Nhà máy Điện Vinh đã bị đánh phá hư hỏng khá nghiêm trọng, chân máy tua bin bị vỡ, lệch nghiêng không thể phục hồi ngay được, trạm nâng thể 35KV bị hư hỏng nặng, 2 máy biến thể bị lật nghiêng vùi lấp trong gạch đá, hệ thống sinh hơi, ghi xích của lò bị biến dạng, một số thiết bị khác bị hư hại nặng.
Tuy đã được chuẩn bị từ trước, nhất là việc xác định tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh để bám trụ sản xuất nhưng đây là trận đầu, mức độ đánh phá với quy mô lớn khốc liệt, thương vong lớn. Thường vụ Đảng ủy và Ban giám đốc đã kịp thời hội ý đề ra một số chủ trương trước mắt: Kịp thời đưa những đồng chí bị thương đi bệnh viện cứu chữa; Chôn cất chu đáo những đồng chí hy sinh, giải quyết tốt tư tưởng, giải quyết kịp thời chế độ chính sách cho gia đình thân nhân những người đã vì nhiệm vụ mà hy sinh; Tổ chức đào bới, tìm kiếm thi thể 4 đồng chí hy sinh còn bị vùi lấp trong trận oanh tạc vừa qua (đồng chí Trần Văn Qua, Phan Đức Duyệt, Đỗ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Bửu Quang); Để lại một bộ phận nhỏ, cộng với lực lượng bảo vệ tuần tra bảo vệ nhà máy, còn lại tạm thời sơ tán lên tuyến hai để bảo toàn lực lượng chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới.Những ngày sau đó, máy bay giặc Mỹ liên tiếp ngày cũng như đêm tập trung đánh phá vào nhà máy và các vùng lân cận, có ngày 5-7 trận. Đảng bộ và nhà máy đứng trước một thử thách đầy gian khổ và hy sinh. Có những thời điểm bị đánh phá ác liệt, Nhà máy đã huy động một máy phát điện 30KVA đặt trên ôtô để phát điện lưu động, nguồn điện được ưu tiên cho Đài phát thanh, Bệnh viện, các Đài chỉ huy tác chiến của tỉnh, của thành phố.
Được lệnh phải phục hồi lại Nhà máy để phát điện phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Mọi người, mọi bộ phận lại lao vào kiểm tra, vệ sinh thu dọn thiết bị, sửa chữa những thiết bị hư hỏng, thì đến 14 giờ máy bay địch lại ập tới ném bom xối xả vào Nhà máy. 8 đồng chí cán bộ công nhân hy sinh ngay tại nơi mình đang làm việc, trong tay còn các dụng cụ đồ nghề làm việc, nhiều đồng chí khác bị thương. Hàng ngày quân dân thành phố Vinh và các vùng lân cận đều được nghe tiếng nói của các phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền thanh tỉnh Nghệ An, Đài Truyền thanh thành phố Vinh. Người dân ở Nghệ An vẫn một lòng tâm niệm: Ở chân núi Dũng Quyết, nơi kẻ địch ngày đêm đem bom đạn cày xới, nhà máy bị tàn phá tưởng không còn gì, thì tại nơi ấy những người thợ điện Vinh đã để lại trong lòng người dân Nghệ An một niềm tin yêu, bởi dòng điện không thể tắt. Bởi vậy, trong những năm chiến tranh ác liệt Nhà máy Điện Vinh được gọi tắt là “Nhà máy 4-6”.
Để thực hiện chủ trương của Bộ Công nghiệp và Cục Điện lực, Đáng ủy Nhà máy Điện Vinh đã họp và đề ra một số chủ trương: Phục hồi sửa chữa ló máy của Nhiệt điện bị máy bay đánh hỏng; Tiến hành chuyển dời máy Diezel 270KW và xin 1 máy 270KW lấy từ Hải Phòng về lắp lại Chùa Hang núi Quyết với công suất 540 KW. Phân tán di chuyển máy móc, thiết bị, dụng cụ, nguyên vật liệu đi đến các nơi an toàn; Bố trí lực lượng vừa đủ để phục vụ cho 3 nhiệm vụ nêu trên, số cán bộ công nhân con lại gửi đi các nhà máy trong ngành để làm việc, khi cần có thể điều động về lại điện Vinh công tác.
Đến tháng 7/1965 ngành công nghiệp Nghệ An đã vận chuyển và sơ tán khỏi thành phố Vinh đến những nơi an toàn khoảng 7 vạn tấn thiết bị, máy móc, hàng hóa. Đối với Nhà máy Điện Vinh chỉ sơ tán những thiết bị dự phòng thay thế, cón toàn bộ Nhà máy không thể sơ tán được.
Theo chủ trương của Đảng ủy là phục hồi tại chỗ để phục vụ điện cho sản xuất và chiến đấu.
Để bảo đảm việc phục hồi được an toàn và sau khi phục hồi xong có chỗ ăn ở, để bám trụ sản xuất lâu dài, lãnh đạo Nhà máy chủ trương củng cố nơi ăn ở thật vững chắc bằng việc làm lán trại sát vách núi, đục hầm sâu vào lòng núi Quyết có thể ở được khoảng 400 người và đặt một số thiết bị máy móc khi địch đánh vẫn được an toàn

Như vậy ngoài 1 hầm có từ thời kỳ thực dân Pháp khoan đào vào năm 1944, năm 1966 công nhân viên Nhà máy Điện Vinh đào thêm 2 hầm rộng và dài hơn. Hầm nào cũng có 3 cửa vào ra 3 hướng, vừa đảm bảo thông khí, thông gió, vừa đảm bảo độ an toàn khi địch ném bom bắn phá. Ngoài việc đào hầm để ở, nhà máy còn đào thêm hào giao thông từ nhà máy dẫn tới các cửa hang, xây thêm các công sự và ụ chiến đấu che chắn các thiết bị nơi làm việc.
Cuối năm 1965, tất cả CBCNV đã trở lại Nhà máy để làm nhiệm vụ phục hồi. Công việc đã gặp phải không ít khó khăn phức tạp, có lúc tưởng chứng không thể vượt qua nỗi. Tuy nhiên với sự nỗ lực kiên cường của CBCNV, chỉ trong vòng 45 ngày phục hồi xong toàn bộ nhà máy. Tiếp đó là những ngày cho chạy thử từng thiết bị. Ngày 2/9/1965 sau gần 2 tháng nhà máy bị đánh phá, phải ngừng đã được chạy lại ( ban đầu dự kiến phục hồi 3 tháng).
Cũng trong giai đoạn này, anh Đào Tăng Sum công nhân Thí nghiệm điện đã xúc động sáng tác bài hát “Hò kéo máy”. Bài hát đã được giải Vàng trong đợt diễn văn nghệ “Tiếng hát át tiếng bom Xuân 1966″ của tỉnh Nghệ An và làm nhạc nền cho bộ phim “Dòng điện không bao giờ tắt”. (Đây là bộ phim kể về Nhà Máy Điện Vinh trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Hãng phim tài liệu thời sự Việt Nam sản suất năm 1969)

Dòng điện được tải đi khắp nơi trên quê hương Xô Viết, nó đã trở thành tâm tư, tình cảm, quyết tâm sắt đá của cán bộ công nhân viên Nhà máy Điện Vinh. Từ trong đổ nát cán bộ công nhân Nhà máy Điện Vinh đã bám lò, bám máy, biết ngụy trang che mắt kẻ địch, đã vận hành phát điện được gần 3 tháng. Đồng chí kỹ sư, trưởng ca vận hành Nguyễn Văn Bản, trong thời gian phục hồi nhà máy anh là người tham gia rất tích cực, có nhiều sáng kiến cải tiến hợp lý hóa sản xuất, trong đó có sáng kiến chuyển dời hệ thống điều khiển vận hành vào trong hang núi. Sau khi phục hồi xong chưa có đủ trưởng ca điều hành, một mình anh đã đi ca 3 tháng liên tục.

Đầu năm 1966 bắt đầu thực hiện kế hoạch chuyển hướng kinh tế 2 năm 1966 1967. Tình hình sản xuất, công tác ở cơ sở, các ngành ở Nghệ An đã vào thể ổn định, linh hoạt, cơ động theo yêu cầu của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những kinh nghiệm quý báu được tổng kết qua nhiều năm chiến tranh, đã tạo điều kiện cho việc chủ động, sáng tạo các phong trào thi đua, phát triển toàn diện và vững chắc trong sản xuất và chiến đấu.
Ngày 12 tháng 2 năm 1966 Đại hội đại biểu Đảng bộ Nhà máy Điện Vinh lần thứ VIII được khai mạc. Qua hơn một ngày làm việc khẩn trương đại hội đã đánh giá đúng mức việc lãnh đạo quần chúng công nhân viên vượt qua thử thách của chiến tranh ác liệt, đẩy mạnh phong trào thi đua trong bất cứ tình huống nào cũng phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đảm bảo việc cung cấp điện cho sản xuất và chiến đấu.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí: đồng chí Thái Tảo được bầu làm Bí thư; đồng chí Đậu Đình Viện – Phó bí thư phụ trách Công đoàn; đồng chí Nguyễn Thành Long – Ủy viên Thường vụ, phụ trách công tác chuyên môn; đổng chí Nguyễn Văn Thành – Ủy viên chấp hành, phụ trách đoàn thanh niên.
Đại hội đã đề ra phương hướng công tác Đảng của năm 1966, bằng những nhiệm vụ cụ thể như sau:
1. Công tác vận hành phát điện: tích cực bảo vệ các nguồn phát điện hiện có, nếu bị địch đánh phá thì tổn thất ít nhất, phục hồi nhanh nhất, bằng biện pháp bảo vệ con người và thiết bị, tích cực sơ, phân tán, thực hiện cơ giới hóa, tự động hóa từng bộ phận cần thiết để giảm đến mức tối đa số người trong một ca vận hành, chống tư tưởng chủ quan khinh địch.
2. Công tác kiến thiết cơ bản; tiếp tục phục hồi lò 3 để dự phòng khẩn trương sửa chữa biến thế 5600KVA. Tập trung lực lượng xây dựng thêm một số cụm Diezel. Tiếp tục sửa chữa máy tua-bin số 2 và tích cực tìm địa điểm cho nguồn nhiệt điện mới. Cần lập ngay các phương án (sản xuất, chiến đấu, phân sơ tán v.v…) khi tình huống xấu nhất để xử lý, hạn chế mức thiệt hại về người và của.

Sau đại hội không khí thi đua lao động hết sức khẩn trương, ở khắp mọi nơi, ở mọi bộ phận, nhất là sau lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/7/1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Để thực hiện chủ trương trên, Đảng ủy đề ra nhiệm vụ: “Toàn nhà máy tập trung tổ chức việc đục sâu vào lòng núi Quyết, làm nhà trong lòng núi để ở, làm hào giao thông từ nhà máy vào các hầm ở trong núi Quyết, làm một hầm kiên cố ở dưới hầm lò 1, làm thêm hệ thống ống trượt, chuyển những bộ phận có thể chuyển được từ trên cao xuống thấp, từ ngoài vào trong nhà máy, tổ chức hệ thống điều khiển từ xa… ổn định một cuộc sống trong hang hầm lâu dài, còn nước còn tát để sản xuất ra điện”.
Trong khó khăn ác liệt do kẻ thù gây ra, CBCNV Nhà máy không những chỉ có lòng dũng cảm, mà phải còn mưu trí và sáng tạo, khắc phục khó khăn về khoa học kỹ thuật từ việc khôi phục máy biến thế 5600KVA, đến việc hiệu chỉnh lại toàn bộ máy tua-bin số 1 và việc tìm tòi suy nghĩ xử lý chân máy tua-bin bị vỡ, trục cong, bệ máy bị lún để đưa toàn bộ máy móc trở về trạng thái ban đầu. Tiến hành tổ chức phục hồi che chắn gia cố phần kiến trúc, làm hầm công sự cho từng thiết bị lẻ, đổ một lớp bê tông cốt thép dày 30cm trên toàn bộ mái nhà lò để bom và đạn pháo chỉ nổ ngay trên mái nhà mà thiết bị trong nhà máy vẫn được an toàn, hàn gia cố lại cầu trục, nhà phân phối 6KV, đổ bê tông mái nhà trạm bơm tuần hoàn v.v… Để giúp Nhà máy Điện Vinh phục hồi kịp tiến độ. Cục điện lực miền Bắc đã cử những đoàn cán bộ kỹ thuật vào cùng tham gia phục hồi, trong đó có cả đồng chí Cục phó Vũ Đình Bông. Đối với tỉnh thì huy động lực lượng lao động đào, đắp, xây lắp hệ thống tuần hoàn và phần kiến trúc nhà máy.
Trên các tuyến đường dây cũng bị đánh phá nghiêm trọng, nhất là các vùng trọng điểm như Cầu Mượu, Rào Gang, xung quanh núi Quyết, Xuân Hồng, cột vượt sông Lam, Đò Trai, Linh Cảm, Linh Sơn, Núi Nguội v.v… Việc đứt dây, vỡ sứ, đổ cột cứ thường xuyên xảy ra. Công nhân quản lý đường dây đã chia nhau trực giải quyết sự cố tại các trọng điểm nêu trên. Nhiều đồng chí công nhân bị sức ép của bom đạn khi đang làm nhiệm vụ. Đồng chí Nguyễn Khắc Đạt một công nhân cần cù, chịu khó, dũng cảm đã anh dũng hi sinh ngay trên cột điện khi đang xử lý đường dây Cầu Gãy để cấp điện cho trạm bơm Linh Cảm – Hà Tĩnh.
Hai năm gian khổ, ác liệt, giành giật với kẻ thù để sản xuất ra từng ki lô oát điện, dòng điện của Nhà máy Điện Vinh vẫn được phát đi đáp ứng mọi yêu cầu sản xuất và chiến đấu cho Nghệ Tĩnh, khẩu hiệu hành động là: “Địch đánh ta phục hồi, địch lại đánh ta lại phục hồi, bám trụ kiên cường, thề quyết tử cho dòng điện quyết sinh”; “Ống khói chính đổ, ta làm ống khói bằng tôn, ống khói bằng tôn đổ ta làm đường khói ngầm”.
Năm 1965- 1966 Nhà máy Điện Vinh đã sản xuất và cung cấp được 11.989.000KWh, sản lượng điện ấy tuy không lớn, nhưng những người thợ điện Vinh với tấm lòng quả cảm, mưu trí, sáng tạo, đổ bao nhiêu mồ hôi công sức, trong đó có cả máu xương của đồng chí, đồng đội “Thề quyết tử cho dòng điện quyết sinh ”, “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”.Hai năm đương đầu với bom đạn giặc Mỹ, cán bộ công nhân Nhà máy Điện Vinh đã phát huy truyền thống anh dũng của người thợ điện trên quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh kiên cường. Vào đầu năm 1967 tại Đại hội Liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước, Nhà máy Điện Vinh là 1 trong 45 đơn vị được phong Anh hùng và đồng chí Huỳnh Ngọc Đủ là 1 trong 111 Anh hùng được Chính phủ và Quốc hội tuyên dương.


Một lần nữa, tại Đại hội Liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước, các đại biểu Nghệ Tĩnh và Nhà máy Điện Vinh được Bác Hồ ân cần thăm hỏi. Bác nghe hết thành tích chiến đấu của Quân khu 4. Bác hỏi chuyện mẹ Suốt, người mẹ Anh hùng chèo đò ở Bến Sông Nhật Lệ (Quảng Bình). Bác hỏi chuyện nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển (Thanh Hóa)… và hỏi chuyện về Nhà máy Điện Vinh nơi gần 10 năm trước Bác về thăm.
Phân xưởng nhiệt điện của Nhà máy 4-6 cũng đầu năm 1967 là một trong 38 đơn vị đạt danh hiệu “Lao động xã hội chủ nghĩa” phân xưởng nhiệt điện là phân xưởng sản xuất của người thợ điện anh hùng Huỳnh Ngọc Đủ.
Tình hình chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn, mức độ đánh phá ngày càng tăng. Giặc Mỹ đã không từ một âm mưu xảo quyệt nào, sử dụng mọi thứ vũ khí tối tân nhất để hủy diệt Nhà máy. Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của địch, Đảng ủy đã phân tích tình hình địch và khả năng bảo vệ nguồn điện của ta, đã đi đến nhận định: “Kiên trì bảo vệ và duy trì nhiệt điện Bến Thủy để cung cấp điện là một chủ trương cách mạng nhất, đúng đắn và quan trọng nhất. Song
chúng ta cũng phải tỉnh đến tình huốngxấu nhất là nhiệt điện Bến Thủy bị đánhhỏng hoàn toàn để cung cấp, ta vẫn trongtình trạng một thể độc canh… Từ đóĐảng ủy chủ trương phá thể độc canh,độc điểm, tự lực cảnh sinh xây dựng lênnguồn điện mới bằng Diezel và nhiệtđiện đểđ ện trong mọi tình huống. Cùngvới nhiệm vụ sản xuất điện, nhà máy conbố trí một trung đội tự vệ ngày đêmtrực chiến đấu trên núi Quyết, phối hợpvới quân và dân thành phố kịp thời nổsoung đ n bảo vệ nhà máy, bá vệ vùngtrời thành phố Vĩnh. Một tiểu đội trìnhsát chốt trên núi Quyết để phát hiện tỉnhhình và âm mưu địch, theo dõi tình hìnhbom đạn rơi vào khu vực nhà máymano chư có kế hoạch rà phá. Ngoài ra Nhàmáy con có một trung đội thườngxuyên sẵn sāng đi ứng cứu và giải quyếtnhững hậu quả do bom đạn Mỹ gây ra.Trong 8 năm chống Mỹ đã sửa chữᏯội phà Bến Thủy và các đơn vị công binhbị bom đạn làm hỏng nặng, sửa chữahàng chục khẩu pháo, 5 giản bệ phóng tên lửng
của bộ đội phòng không, súc nạp hàng trăm bình ắcquy cho bộ đội pháo phòng không và bộ đội tên lừa.Tham gia cứu chữa 5 lần ở vùng xăng dầu và khotàng của Nhà nước, băng bó và cấp cứu hàng trămcán bộ chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong.công nhân giao thông, công nhân lái xe qua phảBến Thủy. Đặc biệt là đợt cấp cứu cán bộ côngnhân Nhà máy gỗ Vinh bị bom đánh vào các lán trạivà hầm trú ẩn tại chân núiQuyết. ném xuống, Nhà máy thành lập1 tổ phá bom gồm 16 đồng chí: đồngchí Hiền, Phúc, Thương, Xuân, Tiến,Ngọ, Hường, Sỹ. Quỳnh, Hùng, Hóa,Thiệu, Nam, Sơ, Cử, Châu (nữ)ữn ữuHưởng chỉ huy. Tổ đã rà phá được 96 quảbom, gồm bom từ trường, bom nổchậm, bom lân tỉnh và hàng trăm quả bombị cg loại góp sản xuất và đường đi vàonhà máy nhiệt điện, tới cụm máy DiezelDI chùa Hang, ra trạm bơm tuần hoànvà dọc trên một số tuyến đường dây taiđiện.

Công nhân Phan Văn Cừ đã anh dũng hy sinh khi tiếp cận đánh 1 quả bom nổ chậm ở vách núi cheo leo nhằm giải phóng đường đi đến cụm Diezel Dl. Anh được truy nạp đảng viên tại chỗ. Trong buổi lễ truy điệu đồng chí Phan Văn Cừ, 105 CBCNV phân xưởng Nhiệt điện đã xin ghi tên vào đội cảm tử, đặc biệt có những bác công nhân già như: Bác Nghệ; bác Phụng gái; bác Phúc gái; bác Tứ cũng xin được ghi tên mình vào đội cảm tử. Sau này có 2 đổng chí hi sinh khi làm nhiệm vụ sơ tán dụng cụ, lương thực thực phẩm của nhà ăn tập thể, đó là: Đồng chí Trịnh Văn Thuận, công nhân vận hành điện, quê ở Hưng Lợi – Hưng Nguyên – Nghệ An. Đồng chí Hà Đăng Sinh y tá, quê ở Thanh Tùng – Thanh Chương – Nghệ An.
Ngày 1 tháng 7 năm 1967 Đại hội đại biểu Đảng bộ Nhà máy Điện Vinh khóa IX khai mạc. Đây là Đại hội bàn và quyết định nhiều vấn đề quan trọng. Tiếp đó là Đại hội công nhân, viên chức, Đại hội Công đoàn và Đại hội Đoàn thanh niên nhà máy, nhằm quán triệt chủ trương của Đảng bộ. Một phong trào 3 múi giáp công trong toàn nhà máy được phát động một cách rầm rộ. Đó là kiên trì nhiệt điện Bến Thủy; Xây lắp thêm nguồn Diezel; Xây dựng nhiệt điện mới.
Bộ phận ở lại Nhiệt điện Bến Thủy
Làm nhiệm vụ tháo tất cả những máy móc thiếtbị ở trên cao đưa xuống thấp, hoặc cất dấu vđotr ơi an toàn, những thiết bị không thể tháo đưaxuống hay cất giấu thì làm vòm bảo vệ che chắncác thiết bị, nếu bom bỏ vào nhà máy vẫn không bịhông. Vào đầu năm 1968 hưởng ứng ậy đồng loạtcủa quân và dân miền Nam, Nhà máy đã tổ chứcmột chiến dịch phục hồi lớn “Tất cả cho 30/3″,tập trung một lực lượng khá lớn để phục hồi nhiệtđiện Bến Thữy ớc đây đưa đi sơ tán, cất giấu, naylại được đem về lắp lại. Nhà máy đã tự sửa chữathành công chân máy tua bin bị vỡ, móng máy bịlệch. Sau 30/3 đã phục hồi xong và đi vào sảnxu ại phục hồi, cho đến những ngày cuối năm 1968,tranh thủ thời cơ ngừng bắn ta lại mở chiếndịch phục hồi “chiến dịch 31/12”. Sau gần 2 thángchiến ự chi viện đắc lực của ngành, của địaphương, nhiệt điện Bến Thủy đã sống lại và tiếp tụcphát điện phục vụ sản xuất và chiến đấu.

Bộ phận xây lắp các trạm Diezel trong 4 năm (1965 – 1968), chúng ta đã xây dựng được 8 cụm (gọi là các D)
Năm 1965 lắp trạm D1 (Chùa Hang núi Quyết) 2 máy, công suất 540KW. Năm 1966 lắp trạm D3 (Tràng Sơn Đô Lương) 3 máy, công suất 1070KW. Năm 1966 lắp trạm D4 (núi Chung Nam Đàn) 2 máy, công suất 540KW. Năm 1967 lắp trạm D2 (trong hang núi Quyết) 1 máy, công suất 851KW. Năm 1967 lắp trạm D5a D5b (Đức Hòa Đức Thọ) 4 máy, công suất 1600KW. Năm 1968 lắp trạm D7 (Dùng Thanh Chương) 2 máy, công suất 540KW. Năm 1968 lắp trạm D6 (trong hang núi Quyết) 2 máy công suất 540KW. Năm 1968 lắp trạm D8 (Nghỉ Vạn Nghi Lộc) 2 máy, công suất 800K W. Với tổng công suất 8 cụm là 5600KW, đã phát huy đắc lực trong việc cung cấp điện cho sản xuất và chiế.
.Bộ phận này được giaonhiệm vụ tháo dỡ một cổ lómáy, một nữa tài sản củanhiệt điệ yền Trunggần lèn Kim Nhan thuộc xãHội Sơn Anh Sơn. Đoànkhảo sát đầu tiên đi tìmđịa điểm đặt máy gồmmột số đồng chí cán bộ côngnhân do đồng chí Thái VănTuấn chỉ huy. Từ đâymộn ệt điện mới ra đời, đượcgọi là “Công trường247″ để kỷ niệm sự kiện xảyra ngày 24/7/1967 ởNhà máy Điện Vĩnh. Bankiến thiết được thành lập,do đồng chí Trịnh Duy Hiểờlàmơ thời thành lập các
ban, đội chức năng vàcử người phụ trách trựctiếp các ban, đội đó: Bankế hoạch do đồng chíNguyễn Viế ồng chí TháiVăn Tuấn phụ trách;Ban tổ chức do đồng chỉNguyễn Minh Châu phụtrách; Ban tái vụ do đồngchỉ Vũ Văn Hoàn phụtrách; Ban vật tư do đồngchỉ Đậu Hồng Tháiphụ n phụ trách; Y tếtrạm xá do đồng chí NguyễnThị Xuân Lan phụtrách:
Đội khai pháhang hầm ngụy trangdo đồng chí NguyễnĐình Sơn phụ trách
Lực lượng ban đầu mới hơn 50 người, sau này khi công trường vào thời kỳ cao điểm có đến trên 300 cán bộ công nhân viên (chưa kể hàng trăm dân công các xã vùng lân cận được tỉnh điều động giúp công trường). Đặc biệt Công ty điện lực miền Bắc đã cử một đoàn cán bộ kỹ sư, kỹ thuật vào chi viện giúp Nhà máy Điện Vinh làm nhiệt điện 3/2. Đoàn cán bộ chi viện này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, đã cùng với cán bộ công nhân viên và đội ngũ cán bộ kỹ sư kỹ thuật của Nhà máy Điện Vinh vượt qua mọi khó khăn gian khổ giải quyết tốt mọi khâu phức tạp về mặt kỹ thuật trong quá trình lắp lò máy.
Cùng một lúc công trường khẩn trưong làm nhiều phần việc như tổ chức khảo sát thiết kế, khai phá hang hầm, thi công các hạng mục xây dựng, làm đường giao thông, ngụy trang che chắn. Song song với nó là việc tổ chức
tháo dỡ thiết bị ở nhiệt điện BếnThủy, vận chuyển để đưa đi lắp đặt.Công tác thậ Ngô Xuân Hiểu phụtrách. Từ tháng 1 năm 1968 đếntháng 3 năm 1968 vừa tháo vừavận chuyển đi từng chặng: ĐôngVịnh, Nam Đàn, Rú Nguội, PhàSói, Eo Trù. Từng đoàn xe vậntải lần đi trong đêm tối vư địchđánh phá ác liệt. Suốt chặngđường dài 120km dưới mưabom, bão đạn , dưới pháo sángcủa giặc Mỹ. Có thiết bị nặngtrên chục tần (bao hơi, bình ngưngtụ, máy tua nđi đồng chí lái xe:Đán, Danh. Đông V.V… dũngcảm chuyên chở tập kết về nơi lắpmáy an toàn.

Trước muôn vàn khó khăn giankhô của buổi đầu đi xây dựngnhiệt điện mới, tập thử điện Vĩnhủa miền Tây Nghệ An dòngchữ: “Dù đói cơm rách áo, dù
giỏ núi mưa ngàn, dù gặp trăm vạn lần gian khổ, chúng ta vẫn quyết tâm chịu đựng, đẻ cho quê hư chiều”. Sau gần 3 năm khai phá hơn 15.000M đá để mở hang hầm đặt máy, làm đường giao thông, đô 2.000m bê tông, xây ển hơn 500 tấn thiết bị, lắp đặt hoàn chỉnh, đúng kỹ thuật , một tổ ló máy nhiệt điện trong hang hầm. Đây là một công trình lớn trên hạn ngạch, một khối lượng to lớn vượt sức mình. Nhiệt điện 3/2 đã trở thành hiện thực, được Bộ thu đưa vào sử dụng vào cuối năm 1970 và chính thức khánh thành vào đúng ngày 3/2/1971 Chiến công này xứng đáng với lá cờ thêu 12 chữ vàng “Chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạn ắ oàn tỉnh Nghệ An tặng cho tập thẻ cán bộ, công nhân viên Nhà máy Điện Vinh.
Từ đó Nhiệt điện 3/2 đã phát huy vai trò lịch sử của mình, qua sáu năm từ 1971 đến 1976 đã vậnhàđ triệu ki-lô-oát giờ điện góp phần cùng nhiệt điện Bến Thủy và Diezel Nghệ Tĩnh đảm bảo “dòng điện không bao giờ tắt”. Đó là ý chỉ cách mạng của cán bộ công nhân viên, là niềm ững thợ điện quê Bác. Đặc biệt từ tháng 4 đến hết năm 1972 khi Nic-xơn phát động lại chiến tranh phá hoại miền Bắc lần Thủy lại bị đánh hỏng nặng ngừng hoạt động một thời gian dài. Nhiệt điện 3/2 đã phát huy tốt tác dụng của nó, đã cung cấp dòng điện liên tục phục vụ tốt cho sản xuất và chiến đấà ng lợi nền nông nghiệp trong tỉnh, đạt 5 tấn 1 héc ta. Trong suốt những năm dài chiến tranh. Nhiệt điện 3/2 đã dam bảo an toàn tuyệt đối cho con
người và thiết bị, tránh được sự hy sinh xương máu. Chỉ 8 tháng cuối năm 1972 Ních-Xơn đã huy động máy bay đánh trên 300 trận vào khu vực Bến Thủy với số bom đạn nhiều hơn 4 năm thời kỳ Giôn-xơn làm Tổng thống.
Như vậy 2 đời Tổng thống Hoa Kỳ đã đánh vào khu vực nhà máy gần 300 trận với 2.319 quả bom các loại, 149 quả tên lửa, 64 phát đại bác và hàng ngàn quả bom bi. Nhà máy Điện Vinh bị phá đi, khôi phục lại 26 lần. Trong bom đạn ác liệt của cuộc chiến tranh, tập thể Điện Vinh làm sáng hơn lên đơn vị anh hùng mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng.
Một vinh dự và tự hào đã đến với Nhà máy, ngày 31/12/1972 Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho đồng chí Trương Quang Thâm – Tổ trưởng sửa
chữa máy tua-bin Nhà máy Điện Vĩnh. Anh hùng Trương Quang Thâm sinh năm 1917 quê ở Thạch Đài Thạch Hà – Hà Tĩnh. Năm 16 tuổi đi học việc ở i sau đó làm công nhân. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đồng chí đã công với anh em công nhân Trường Thi vận chuyển máy móc lên chiến khu tham gia kháng chiến. ng Nhà máy Điện Vinh. Đồng chí Trương Quang Thâm là người có công lớn trong việc sửa chữa tua-bin bị nghiêng lệch do bom đạn đánh vào Nhà máy. Đồng chí đã nhiều lần bị thương, bị sức ữa kịp thời. Ngày 15/11/1973 Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động quân sự tiến công bao gồm: Ném bom, bắ ền Bắc nước ta. Cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ 2 của đế quốc Mỹ từ 6/4/1972 đến 14/1/1973 đã hoàn toàn thất bại. Hòa bình trở lại trên miền Bắc. Đến ngày 27/1/1973 Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết và có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28/1/1973.
Sau hiệp định Pa-ri được ký kết, miền Bắc lại tập trung vào khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Nhà máy Điện Vinh lại phải đương đầu với những khó khăn mới không kém phần gay go ác liệt so với thời chiến: Vừa phục hồi Nhiệt điện Bến Thủy, các tuyến đường dây và các trạm biến áp cho kịp với yêu cầu mới, lại phải lo sản xuất điện ở Nhiệt điện 3/2 và các trạm Diezel phục vụ điện cho Nghệ Tĩnh.

Tình hình Nhiệt điện Bến Thủy lúc này bị hư hỏng nặng. Qua 6 tháng phục hồi đợt I, nhiệt điện Bến Thủy đã trở lại vận hành và cung cấp điện phục vụ hè thu của Nghệ Tĩnh. Các tuyến đường dây và trạm cũng lần lượt được phục hồi trong cả năm 1973 và tiếp tục được mở rộng nâng cấp, cải tạo trong các năm sau đó.

Năm 1973-1974 tại Nhà máy Điện Vinh là một công trường lớn sôi động suốt ngày đêm tấp nập khôngng phục hồi sửa chữa, mở rộng sản xuất và phát triển hệ thống lưới điện; Mỡ chiến dịch làm nhà cửa, cũng cổ nơi ăn, ở cho CBCNV.
Tin tức thắng trận cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 cứ dồn dập truyền đi khi các cṧ i Gòn. Thời điểm này Nhà máy Điện Vĩnh được Tỉnh ủy Nghệ An và Liên hiệp Công đoàn Nghệ An giao làm hai việc lớn đề đón giờ phút thiêng liêng giải phóng miền Nam đó là dựng một cột cờ cao 20 métỉ ụm chữ “Bác Hồ vĩ đại” trên nóc nhà máy. Một công trường được mở ra , và chỉ sau 2 ngày gia công 2 công trình đó đã hoàn thành. Đúng 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên đỉnh núi Quy ên nóc Nhà máy Điện Vĩnh dòng chữ “Bác Hồ vĩ đại với hàng trăm bóng đèn nhấp nháy sáng rực. Cả thành phố Vinh và các vùng lân cận, kể cả bên kia bờ sông Lam, ngƝ sướng, tự hào đến dâng trào nước mắt.
Như vậy, trong 10 năm (1965-1975), với 10 nguồn điện được phát lên ở khắp nơi, Nhà máy Điện Vinh ng điện không bao giờ tắt trên quê hương Xô viết Nghệ Tĩnh”. Đà sản xuất được 113.000.000KWh phục vụ cho sản xuất, chiến đầu và sinh hoạt của nhân dân trong cuộc chiế ỹ xâm lược.



