Giai đoạn 1975- 1984

GIAI ĐOẠN 10 NĂM SAU CHIẾN TRANH

Ngày 30/4/1975 cuộc tổng tiến công mùa xuân đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giai phòng, kết thúc quá trình 3 và bảo vệ tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thẻ kỵ của chu nghĩa đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giành độc lập thông nhấn, là nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1975 trở đi điện Vĩnh bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển lớn. sản xuất điện cực ký gian khô vì khả năng nguồn điện không đáp ứng được yêu cầu phát triên của sản xuất và đời sống. Công ty Điện lực miền Bắc đã tập trung tăng cường nguồn điện cho

Nhà máy điện Vĩnh nhằm giải quyết sự mất cân đổi giữa khả năng và nhu cầu về điện bằng ẵng đặt cạnh Nhiệt điện Bến Thuy với công suất máy 1200KW (năm 1975); Năm 1976 đưa 5 máy GM công suất – máy 2100KW từ Vũng Tàu đặt ở Còn Mô (phường Bên Thuy hiện nay) (2100KW x 5 máy 10.500KW). ằng tàu của đoàn quân sự Hồng Hà (bình trạm 8) đi theo đường biên cập cảng Bến Thủy và str dụng đoản quân của xí nghiệp đoàn vận tải nặng Bộ Giao thông vận đ ệc chuẩn bị chạy thư và đưa vào sử dụng ôn định là một quá trình hết sức phức tạp. Năm 1976 tại Rú Trò – Hà Tĩnh đã tiếp nhận và xây dựng 8 máy T66- 400KW. Năm 1977 đặt tại Đô Lương 4 W. Tại khu vực Gà Vịnh lập 3 may 320KWx3 960KW của Đire.

Như vậy tông công suất lắp đặt của nguồn điện Diezel của điện Vĩnh quản lý lên đến gần 2Ḩ ác Diezel dự phòng hoặc phát độc lập của cơ quan xí nghiệp nông, lâm trường trong tình ước khoảng 3000KW. Theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Điện và Than, đồng thời với việc phục hồi toàn diện Nhiệt điện ệt điện 3/2 di chuyển về Vĩnh tập trung hoản chính lại Nhiệt điện như trước chiến tranh có công suấ 8000K W. Đây cũng là năm Diezel được huy động phát sản lượng cao nhất với 23.500.000KWh. Nhiệt điộ 0KWh. Tông công suất của Nhà máy Điện Vĩnh những năm sau chiến tranh chống Mỹ đã lên đến 28.000KW, công suất yêu cầu cao nhất là 10.000K W.

Cùng thời điểm đã lắp xong 6 trạm biến thế ở khu vực trọng điểm (khu vực Ngã Sáu; Xí nghiệp gạch 22/12; Nhà máy nước, khu vực Tỉnh ủy; Nghi Xuân; Trường Cơ điện) Dựng xong các tuyến đường dây Vinh Apatít; Linh Cảm – Hương Sơn).

Mặc dầu công suất của nguồn lớn gần gấp ba lần yêu cầu của phụ tải. Song vì thiết bị của Nhiệt điện đã khai thác trên 20 năm, lại trải qua 2 cuộc chiến tranh địch đánh phá bị hư hỏng biến dạng, già cỗi, than lại thiếu trầm trọng, chất lượng xấu. Nguồn Diezel lại ở phân tán rải rác, phụ tùng thay thế không có, dầu Diezel thiếu, nên khả năng nguồn không đáp ứng yêu cầu của phụ tải, mỗi khi nông nghiệp yêu cầu chạy bơm cấp nước thì phải sa thải bớt phụ tải, hoặc phải thực hiện cắt điện luân phiên.

Không thể để tình trạng này kéo dài mãi, lãnh đạo Nhà máy quyết định thay mới toàn bộ hệ thống thiết bị lò hơi bằng vật tư thiết bị tự cải tạo, tự sản xuất lấy, với thời gian khẩn trương 2 tháng phải xong lò 1, sau đó là lò 2. Trong vòng 4 tháng đã làm mới gần như cả 3 lò và vận hành tương đối an toàn.

Ngày 8/2/1983 đưa máy biến thể 27 trạm Hưng Đông vào vận hành cấp điện: Ngày 30/1/1985 đưa máy biến ận hành cấp điện: Ngày 17/5/1990 lắp xong đưa máy biến thể AT3 trạm trung gian 220KV vào vận hành: Dung lượng máy 110/35/10KV (Hưng Đông). 2 25.000KVA 50.000KVA: ưng Đông) 1*125.000KVA= 125.000KVA; Tháng 2/1983 lưới điện Nghệ Tình được nối với lưới điện quốc gia qua đường dây 220KV ng – Vĩnh, rồi tỏa đi khắp mọi miền của Nghệ Tĩnh. Giờ đây Điện Vĩnh đã có chỗ dựa vữ vàng hơn, không phải lo đơn phương độc mã như trước đây. Tuy miền Bắc con thiếu điện, nhưng quađ ệt điện Bến Thủy phát ổn định hơn, bớt dần sự căng thẳng vào thời gian cao điểm. Sản lưỻ điện thương phâm cũng tăng nhanh: Năm 1983 phát được 33.000.000KWh; Năm 1984 phát được 53.000.000KWh.

Đường dây 110KV Điện lực Nghệ An quản lý gồm 236km (trong đó 48km mạch đơn Vinh – Đô Lương; 94km mạch kép Thanh Hóa – Quỳ Hợp).

Đường dây 220KV từ khe nước lạnh (Thanh Hóa) đến cột vượt sông Lam (Nghệ An) số lượng 235 cột do Công ty Truyền tải điện I quản lý.

Đường dây 500KV từ Bãi Chành (Thanh Hóa) đến Nam Kim – Nam Đàn (Nghệ An) số lượng 255 cột do Công ty Truyền tải điện I quản lý.

19/5/1990 đưa trạm 110/35/10KV Nghĩa Đàn vào vận hành. (1 x 10.000KVA = 10.000KVA) Điện lực Nghệ An quản lý.

1/5/1991 đưa trạm 110/35/10KV Quỳ Họp vào vận hành. (2 x 25.000KVA = 50.000KVA) Điện lực Nghệ An quản lý.

18/7/1995 đưa trạm 110/35/10KV Đô Lương vào vận hành. Điện lực Nghệ An quản lý. (1X 25T00KVA = 25.000KVA) Điện lực Nghệ An quản lý.

Vừa thoát ra khỏi chiến tranh khốc liệt, mọi thứ đều thiếu thốn, sự chi viện giúp đỡ của các nước anh em ngày một giảm dần, kẻ thủ luôn tìm mọi cách phá hoại công cuộc khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh của dân tộc ta. Thiên tai khác nghiệt liên tiếp xảy ra. Điển hình là cơn bão số 7 (tháng 10/1982) toàn bộ khu nhà ở tập thể, gia đình của công nhân viên bị đồ hoặc tốc mái, kho tàng bị hư hại khá nặng. Các tuyển đường dây 35, 10, 6KV hầu hết bị đứt dây. đó cột, gây đồ cột, vật tư, nhiên liệu bị hư hại khá nhiều (hơn 600 tấn than đốt lò bị trôi, hàng trăm tấn xi măng bị ướt v.v…) phải mất hàng tháng mới phục hồi được các tuyền đường dây, nơi ăn ở cho cán bộ công nhân viên. Trong hoạn nạn đã có 19 đơn vị trong ngành đến trợ giúp về tiền, gạo, xi măng, tấm lợp, chăn, man, quần áo và các nhu yếu phẩm khác. Những đơn vị gần thì đưa lực lượng cán bộ kỹ thuật, công nhân đến giúp nhà máy phục hồi các tuyến đường dây, sửa chữa ló máy v.v…

10 năm gian khổ vật lộn với lò máy, sự cố rơi ghi, rơi ngựa, thiếu than, thiếu dầu, áp lực tụt, sập cuốn lò, nước tuần hoàn cạn kiệt, đời sống công nhân viên và gia đình thiếu thôn, cực khổ. Mỗi lần giao ca ra về người nào, người ấy phờ phạc, mệt mỏi, có đồng chí công nhân lò ngất xỉu, nhưng vẫn bám lò, bám máy để đảm bảo sản xuất điện cho Nghệ Tĩnh.

Trong khó khăn gian khổ thiểu thốn tất cả CBCNV vẫn đoàn kết một lòng với tỉnh thần trách nhiệm cao, ũng cảm, trí sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chỉ có ai năm trong hoàn cảnh mới thấu hiểu hết một cách tường tận, mới đánh giá đúng khả năng con bản chấ máy điện Vĩnh sản xuất ra từng ki-lô-oát điện để phục vụ cho quê hương.